Trước các rào cản thương mại toàn cầu ngày càng gia tăng và biến động thị trường, ngành thủy sản Việt Nam đang tăng cường nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và sản phẩm để duy trì tăng trưởng và giảm thiểu rủi ro.
Thủy sản chế biến xuất khẩu. Ngành thủy sản Việt Nam đang tăng cường nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và sản phẩm để duy trì tăng trưởng và giảm thiểu rủi ro. — TTXVN/VNS Photo Vũ Sinh
HÀ NỘI — Đối mặt với các rào cản thương mại toàn cầu ngày càng gia tăng và biến động thị trường, ngành thủy sản Việt Nam đang tăng cường nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và sản phẩm để duy trì tăng trưởng và giảm thiểu rủi ro.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), xuất khẩu thủy sản đạt 3,3 tỷ USD trong bốn tháng đầu năm 2025, tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái. Tôm dẫn đầu tăng trưởng với mức tăng 30%, tiếp theo là cá tra (cá tra), tăng 9%.
Trung Quốc trở thành nhà nhập khẩu thủy sản lớn nhất của Việt Nam với mức tăng 56%, tiếp theo là Nhật Bản (22%) và Mỹ (7%). Mặc dù phục hồi nhẹ sau quý đầu tiên chậm chạp, xuất khẩu sang Mỹ vẫn chịu áp lực do thuế quan và rào cản thương mại kỹ thuật.
Phan Hoàng Duy, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thủy sản Cần Thơ (CASEAMEX), cho biết Mỹ chiếm hơn một nửa lượng cá tra xuất khẩu của công ty. Tuy nhiên, chi phí gia tăng liên quan đến thuế quan của Mỹ đang thúc đẩy công ty chuyển hướng sang các thị trường khác ở châu Âu và châu Á, đồng thời cắt giảm chi phí sản xuất và hồi sinh các khách hàng cũ.
Để hỗ trợ tiếp cận thị trường rộng lớn hơn, Phó Tổng thư ký VASEP Lê Hằng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do như Hiệp định Thương mại Tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) để mở rộng xuất khẩu sang EU, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Bà cũng kêu gọi các doanh nghiệp khám phá các thị trường mới như Trung Đông và Nam Mỹ để giảm sự phụ thuộc quá mức vào người mua truyền thống.
Tôm nuôi tại tỉnh Hậu Giang. — TTXVN/VNS Photo Duy Khương
Các sản phẩm thủy sản của Việt Nam, đặc biệt là tôm, có lợi thế cạnh tranh tại EU do thuế quan bằng không, so với 12-20% áp dụng đối với các sản phẩm Trung Quốc. Mặc dù chưa có đột phá lớn, nhưng xuất khẩu sang EU tiếp tục tăng trưởng ổn định trong các danh mục sản phẩm chủ lực như tôm thẻ chân trắng, tôm sú, cá ngừ, cá tra và nghêu.
Vào tháng 5, VASEP đã dẫn dắt 28 công ty Việt Nam tham dự Triển lãm Thủy sản Toàn cầu lần thứ 31 tại Tây Ban Nha, củng cố chiến lược đa dạng hóa thị trường và giảm sự phụ thuộc vào các điểm đến có rào cản cao.
Các thị trường chiến lược mới nổi
Singapore đã trở thành nhà nhập khẩu thủy sản lớn thứ tư của Việt Nam, vượt qua Malaysia, Indonesia và Na Uy. Nhu cầu mạnh mẽ đối với các sản phẩm cá ướp lạnh, đông lạnh và phi lê. Văn phòng Thương mại Việt Nam tại Singapore đang hợp tác chặt chẽ với VASEP để hỗ trợ các doanh nghiệp trong tiếp thị, tham gia hội chợ thương mại và tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng.
Ở Nam Mỹ, Brazil đang nổi lên như một thị trường chiến lược. Cá tra Việt Nam hiện chiếm 38% thị phần của Brazil, với 26 nhà xuất khẩu đang hoạt động, bao gồm Hưng Ca, Cadovimex, Nam Việt và Hoàng Long. Trong quý 1 năm 2025, xuất khẩu thủy sản sang Brazil đã tăng hơn 70% so với cùng kỳ năm ngoái.
Brazil gần đây đã dỡ bỏ lệnh cấm cá rô phi Việt Nam, mở ra cơ hội mới cho việc đa dạng hóa sản phẩm. Nước này cũng đang xem xét nới lỏng các quy định về các chất phụ gia như phốt phát, có khả năng thúc đẩy xuất khẩu thủy sản chế biến của Việt Nam. Ngoài thị trường, Việt Nam cũng đang đa dạng hóa sản phẩm của mình. Cá rô phi đang được ưu tiên để bổ sung cho sự tập trung của ngành vào tôm và cá tra. Theo ông Trần Đình Luân, Giám đốc Tổng cục Thủy sản, nuôi cá rô phi sẽ giúp cân bằng danh mục xuất khẩu của ngành.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Phùng Đức Tiến nhấn mạnh, đa dạng hóa thị trường không chỉ là giải pháp ngắn hạn mà là chiến lược dài hạn. Ông kêu gọi các doanh nghiệp tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm các yêu cầu về Halal và đầu tư vào kiểm soát chất lượng, hiệu quả chi phí, năng lực chế biến và xúc tiến thương mại.